ACT, SAT, GMAT và GRE – Chuẩn mực cho hồ sơ học tập thuyết phục

hồ sơ học tập hồ sơ học tập hồ sơ học tập

Hoa Kỳ là đất nước không dễ xin thị thực Visa du học (F1), nhưng cũng không quá khó nếu bạn chuẩn bị tốt và đầy đủ. Bộ hồ sơ nộp Đại Sứ Quán bao gồm nhiều tập thông tin: hồ sơ học tập, hồ sơ tài chính, hồ sơ nhân thân…

Dĩ nhiên sự chuẩn bị tốt và thuyết phục ấy là mỗi người mỗi kiểu, nhưng để có một chuẩn mực thuyết phục The Tree Academy xin giới thiệu với các bạn một số chương trình học có liên quan để minh chứng cho một kế hoạch học tập và nghiên cứu rõ ràng trên đất Mỹ.

ACT, SAT, GMAT VÀ GRE là gì? hồ sơ học tập

ACT, SAT, GMAT và GRE – Chuẩn mực cho hồ sơ học tập thuyết phục
ACT vs. SAT

1. AMERICAN COLLEGE TESTING (ACT)

American College Testing (ACT Inc.)  là một tổ chức độc lập và phi lợi nhuận, được thành lập năm 1959, với nhiệm vụ ban đầu là giúp mọi người – chủ yếu là học sinh sinh viên – đạt những thành tựu trong học tập và nghề nghiệp (thông qua những bài kiểm tra đánh giá năng lực thí sinh. Các bài kiểm tra này đã được “tiêu chuẩn hóa”, theo một cách nào đó, để bộc lộ những điểm mạnh-yếu trong kiến thức kỹ năng của thí sinh.

Qua kết quả đánh giá bài thi thí sinh có thể hoàn thiện mình hơn. Năm 1996 American College Testing đổi tên thành ACT để cung cấp thêm hàng trăm chương trình đào tạo khác. Năm 2005 ACT đi ra quốc tế, nghĩa là vươn mình hoạt động ra khỏi lãnh thổ Mỹ, qua việc thành lập tổ chức ACT International, B.V. gồm hai mảng hoạt động: ACT Education Solutions, Limited ACT Business Solutions, B.V.

Tuy nhiên ACT vẫn giữ được nguyên tắc độc lập và phi lợi nhuận trong toàn bộ hoạt động của mình. Kết quả thi ACT thường được xem như một chỉ số về năng lực học tâp và sẵn sàng cho việc học tập ở bậc đại học của học sinh Trung học. Triết lý đánh giá của ACT là mỗi cá thể bẩm sinh đều khác nhau về năng lực trí tuệ.

Do đó các bài kiểm tra của ACT không nhằm đánh giá độ thông minh, hay năng lực trí tuệ của học sinh, mà chỉ tập trung vào việc đánh giá những gì học sinh học được từ trường học và bài thi thì “bám sát” chương trình học (curriculum-based). ACT muốn “biết” học sinh đã chuẩn bị đủ kiến thức cần thiết để vào học ở bậc đại học hay chưa qua việc đánh giá sự nỗ lực trong học tập của thí sinh. Do vậy những học sinh siêng năng, cần mẫn và chịu khó học bài sẽ  “thích” ACT hơn.

Bài thi ACT gồm 4 phần trắc nghiệm bắt buộc: English (phân tích và tu từ), Math (đại số, hình học và hình học không gian),Reading comprehensionScience (lượng định tình huống và giải quyết vấn đề). Ngoài 4 phần bắt buộc kể trên còn có một phần tự chọn Essay writing trong 30 phút. Dù gọi là tự chọn, nhưng nhiều trường đại học hiện nay cũng yêu cầu điểm Essay writing như một phần không thể thiếu trong việc xét tuyển.

Các chủ đề có thể đề cập đến trong ACT là rất rộng (so với SAT), nhưng “yếu” ở một môn thi nào đó không ảnh hưởng nhiều đến các môn khác (như SAT). Phần English trong ACT lại có khuynh hướng chú trọng hơn đến kỹ năng ngôn ngữ về văn phạm (grammar) và chấm câu (punctuation).

Trong cùng một phần thi của ACT, độ khó của các câu hỏi là ngẫu nhiên (easy, medium và hard lẫn lộn thứ tự với nhau). ACT có khoảng 7 câu hỏi về Hình học Không gian, phần này không có trong SAT.

Bài thi ACT bao gồm 215 câu hỏi, thời gian làm trong 175 phút, nếu có thi phần tự chọn Essay writing thì thêm 30 phút nữa.

Mỗi phần thi ACT có điểm từ 1-36. Điểm trung bình tối đa của ACT là 36 (Maximum Composite Score).

Phí đăng ký dự thi ACT là $30/lần. Mỗi năm có 6 kỳ thi (tháng 2, 4, 6, 9, 10, và 12). Học sinh có thể tham dự bao nhiêu kỳ thi ACT cũng được và tự quyết định chọn kết quả nào tốt nhất để gởi cho trường Đại học và nhà trường chỉ xem xét năng lực học sinh qua điểm ACT duy nhất do học sinh (đề nghị tổ chức chấm thi) gởi đến (bỏ qua những kết quả khác).

Môn thi chuẩn bị cho ACT là Pre-ACT (PLAN Test) sẽ được thi vào năm lớp 10.

Hạn chót đăng ký thi: 5-6 tuần trước ngày thi.

2 SCHOLASTIC APTITUDE TEST (SAT)

Vào những năm cuối cùa thế kỷ 19, một nhóm các trường Đại học hàng đầu của Mỹ cùng chia sẻ mối lo ngại về việc không có hệ thống chuẩn mực nào để đánh giá khả năng sẵn sàng cho việc học tập ở bậc Đại học của sinh viên. Các trường đã cùng nhau thành lập College Entrance Examination Board (College Board ngày nay) vào năm 1900 và cùng phối hợp tổ chức thi SAT lần đầu tiên vào năm 1901.

College Board là một tổ chức hoạt động phi lợi nhuận. Nhiệm vụ của College Board là giúp đỡ sinh viên đạt những thành tựu trong học vấn và nghề nghiệp. Hàng năm College Board phục vụ hơn 7,000,000 lượt sinh viên chuẩn bị những kỹ năng cần thiết để sẵn sàng chuyển tiếp lên học Đại học (trong đó quan trọng nhất là SAT và Advanced Placement Program).

Các bài thi SAT nhằm khảo sát tư duy logic và năng lực luận lý (reasoning-based) của học sinh. Do vậy cách ra câu hỏi SAT khá “trúc trắc”, dễ gây rối rắm suy nghĩ của thí sinh. Những học sinh có tư duy lập luận tốt lại thích thi SAT hơn.

Bài thi SAT gồm có 3 phần: Mathemathics (Số và Thao tác Tính toán, Đại số và Phương trình, Hình học và Đo lường, Phân tích dữ liệu và Xác suất; Kiến trắc nghiệm và “grid-in” buộc học sinh phải tự tìm ra đáp số để điền vào chỗ trống), Critical Reading(multiple-choice sentence completion và passage type questions) và Writing (viết bài luận ngắn theo chủ đề được chỉ định).

Phần English trong bài thi SAT tập trung nhiều hơn vào phần khảo sát kỹ năng về từ vựng. Trong cùng một phần thi của SAT độ khó của các câu hỏi sẽ tăng dần. Bài thi SAT không có câu hỏi thi về Hình học không gian (trong khi đó thi ACT lại có phần này).

Bài thi SAT có tất cả 140 câu hỏi, thời gian làm trong 225 phút. Mỗi phần thi của SAT có điểm từ 200-800, bài thi SAT toàn bộ có điểm tối đa là 2400.

Phí đăng kỳ thi SAT là $43/lần. Mỗi năm có đến 7 kỳ thi SAT (tháng 1, 3, 5, 6, 10, 11 và 12).

Học sinh được tùy ý thi SAT bao nhiêu lần cũng được, tất cả các kết quả thi sẽ được yêu cầu gởi đến trường Đại học (để xem xét), cho dù những kết quả đó có làm học sinh hài lòng hay không. Tuy nhiên học sinh được toàn quyền chọn kết quả tốt nhất là kết quả chính thức gởi cho trường Đại học.

Môn thi chuẩn bị cho SAT là Pre-SAT (PSAT) sẽ được thi vào năm lớp 10.

Hạn chót đăng ký thi: 4 tuần trước ngày thi.

ACT, SAT, GMAT và GRE – Chuẩn mực cho hồ sơ học tập thuyết phục

3 GRE và GMAT

GRE(Graduate Record Examination) là kỳ thi đầu vào của các chương trình cao học ngành khoa học và kỹ, giúp các trường đại học, các tổ chức tài trợ học bổng đánh giá một cách đúng đắn năng lực của các thí sinh khi xin học sau đại học tại Mỹ. Kỳ thi này kiểm tra thí sinh về 3 năng lực cơ bản là Verbal (Ngôn ngữ), Math (Toán) và Analytical Writing (Phân tích luận).

GRE thực sự là một kì thi khó vì nó đòi hỏi các bạn phải có một lượng từ vựng khổng lồ khoảng 5000 từ và các kỹ năng làm bài thành thạo. Chính vì thế, nên việc học và ôn luyện GRE mất rất nhiều thời gian và phải đầu tư nhiều công sức.

GMAT(Graduate Management Admission Test) dùng để đánh giá chất lượng các thí sinh xin học chương trình cao học về Quản lý và Kinh doanh. Kết quả thi GRE hoặc GMAT thường được sử dụng như một trong các chỉ số đánh giá khả năng thành công của thí sinh trong chương trình cao học.

Mỗi kỳ thi GRE và GMAT đều kiểm tra 3 kỹ năng chính yếu: Verbal, Math và Analytical Writing.

Trong đó phần thi Ngôn ngữ kiểm tra các kỹ năng đọc, hiểu; tổng hợp, phân tích, đánh giá các tài liệu văn bản nói chung và các mối quan hệ của câu cũng như nhận biết các mối quan hệ giữa các từ và các khái niệm nói riêng.

Phần thi Toán kiểm tra các kỹ năng tính toán cơ bản, khả năng suy luận tính toán, và diễn giải các dữ liệu.

Phần thi Viết đánh giá các kỹ năng lập luận chặt chẽ, phân tích sâu sắc, và diễn đạt tập trung, logic các ý tưởng phức tạp dưới dạng văn bản. Điểm bài thi GMAT và GRE đều có giá trị trong vòng 05 năm.

Điểm thi GRE, GMAT không chỉ là các căn cứ để các trường đại học xét tuyển đầu vào mà còn là cơ sở cho việc xét cấp học bổng sau đại học của các tổ chức như Quỹ Giáo dục Việt Nam và Chương trình Học bổng Fulbright. Nếu điểm các chứng chỉ này càng cao thì cơ hội thí sinh đựơc chấp nhận vào học tại các trường đại học càng thuận lợi và cơ hội được nhận các loại học bổng càng cao.